Quy định việc dạy và học bằng tiếng nước ngoài trong cơ sở giáo dục
Đây là Nghị định số 222/2025/NĐ- CP ngày 08/08/2025 của Chính phủ. Nghị định này quy định việc dạy và học bằng tiếng nước ngoài trong cơ sở giáo dục, bao gồm: nguyên tắc dạy và học bằng tiếng nước ngoài; yêu cầu đối với việc dạy và học bằng tiếng nước ngoài về chương trình, giáo trình, tài liệu, người dạy, người học, cơ sở vật chất, thiết bị dạy học, thi, kiểm tra, đánh giá, bảo đảm chất lượng, học phí và quản lý học phí; thẩm quyền, hồ sơ, thủ tục phê duyệt, gia hạn, điều chỉnh, đình chỉ, chấm dứt việc dạy và học bằng tiếng nước ngoài trong cơ sở giáo dục. Nghị định được áp dụng đối với các cơ sở giáo dục phổ thông, cơ sở giáo dục thường xuyên, cơ sở giáo dục nghề nghiệp, cơ sở giáo dục đại học và các trường của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, lực lượng vũ trang (sau đây gọi là cơ sở giáo dục); người dạy bằng tiếng nước ngoài, người học bằng tiếng nước ngoài; các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan đến việc dạy và học bằng tiếng nước ngoài. Một số quy định của Nghị định cụ thể như sau:
1. Chương trình, giáo trình, tài liệu sử dụng để dạy và học bằng tiếng nước ngoài và thẩm quyền phê duyệt chương trình, giáo trình, tài liệu giảng dạy
Đối với giáo dục phổ thông
Cơ sở giáo dục phổ thông thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông của Việt Nam được dạy và học một số môn học, hoạt động giáo dục hoặc một số nội dung của một số môn học, hoạt động giáo dục bằng tiếng nước ngoài, ưu tiên đối với các môn học thuộc các lĩnh vực toán học, khoa học tự nhiên, công nghệ và tin học;
Chương trình, tài liệu giảng dạy bằng tiếng nước ngoài trong các cơ sở giáo dục phổ thông bảo đảm đáp ứng các yêu cầu tương ứng quy định trong chương trình môn học, hoạt động giáo dục của Chương trình giáo dục phổ thông của Việt Nam và được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 10 và Điều 11 Nghị định này.
Đối với giáo dục thường xuyên
Chương trình giáo dục thường xuyên được dạy và học một phần bằng tiếng nước ngoài;
Giáo trình, tài liệu giảng dạy bằng tiếng nước ngoài do giám đốc cơ sở giáo dục thường xuyên chịu trách nhiệm lựa chọn đối với giáo trình, tài liệu do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành hoặc đã phê duyệt hoặc lựa chọn các tài liệu của các cơ sở giáo dục đại học, cơ sở giáo dục nghề nghiệp, các tổ chức giáo dục trong nước và quốc tế phù hợp nhu cầu của người học và khả năng đáp ứng của cơ sở giáo dục thường xuyên;
Chương trình, tài liệu giảng dạy bằng tiếng nước ngoài của cơ sở giáo dục thường xuyên dạy chương trình giáo dục phổ thông được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 10 và Điều 11 Nghị định này;
Chương trình, tài liệu giảng dạy bằng tiếng nước ngoài của cơ sở giáo dục thường xuyên dạy chương trình giáo dục nghề nghiệp và chương trình giáo dục đại học thực hiện theo khoản 3 và khoản 4 Điều này.
Đối với giáo dục nghề nghiệp
Chương trình của các ngành, nghề đã được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động giáo dục nghề nghiệp hoặc của các ngành, nghề được tự chủ mở ngành theo quy định của pháp luật được tổ chức giảng dạy một phần hoặc toàn bộ bằng tiếng nước ngoài;
Chương trình, giáo trình của cơ sở giáo dục nghề nghiệp sử dụng để dạy và học bằng tiếng nước ngoài được thực hiện theo quy định hiện hành về quy trình xây dựng, thẩm định và ban hành chương trình đào tạo; tổ chức biên soạn, lựa chọn, thẩm định, phê duyệt và sử dụng giáo trình trình độ sơ cấp, trung cấp và cao đẳng;
Giáo trình, tài liệu sử dụng để dạy và học bằng tiếng nước ngoài do Hiệu trưởng, Giám đốc (sau đây gọi chung là Hiệu trưởng) cơ sở giáo dục nghề nghiệp phê duyệt dựa trên kết quả thẩm định của Hội đồng thẩm định do Hiệu trưởng thành lập, bảo đảm thực hiện theo đúng quy trình thẩm định giáo trình, tài liệu.
Đối với giáo dục đại học
Các chương trình, giáo trình, môn học, mô-đun, học phần của giáo dục đại học đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt được giảng dạy một phần hoặc toàn bộ bằng tiếng nước ngoài;
Giáo trình, tài liệu giáo dục đại học sử dụng để dạy và học bằng tiếng nước ngoài do Giám đốc, Hiệu trưởng (sau đây gọi chung là Hiệu trưởng) cơ sở giáo dục đại học phê duyệt dựa trên kết quả thẩm định của Hội đồng thẩm định do Hiệu trưởng thành lập, bảo đảm thực hiện theo đúng quy trình thẩm định giáo trình, tài liệu.
Đối với trường của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội
Tổ chức hoạt động đào tạo các trình độ của giáo dục nghề nghiệp: chương trình, giáo trình và tài liệu giảng dạy được thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều này;
Tổ chức hoạt động đào tạo các trình độ của giáo dục đại học: chương trình, giáo trình và tài liệu giảng dạy được thực hiện theo quy định tại khoản 4 Điều này.
Đối với các cơ sở giáo dục thuộc Bộ Quốc phòng, Bộ Công an
Cơ sở giáo dục phổ thông: việc phê duyệt chương trình, tài liệu giảng dạy được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều này;
Cơ sở giáo dục nghề nghiệp, cơ sở giáo dục đại học: chương trình, giáo trình và tài liệu giảng dạy do Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an phê duyệt.
Ngôn ngữ sử dụng dạy và học bằng tiếng nước ngoài được quy định trong Đề án dạy và học bằng tiếng nước ngoài được phê duyệt tại Điều 10, Điều 11 Nghị định này, trong đó khuyến khích sử dụng tiếng Anh trong cơ sở giáo dục.
Chương trình, giáo trình, tài liệu sử dụng để dạy và học bằng tiếng nước ngoài không bao gồm những nội dung thuộc các lĩnh vực giáo dục chính trị, an ninh, quốc phòng, lịch sử và nội dung ngữ văn liên quan tới Việt Nam.
Ứng dụng công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo, chuyển đổi số trong dạy và học bằng tiếng nước ngoài trong cơ sở giáo dục thông qua việc sử dụng các công cụ và nền tảng công nghệ để hỗ trợ dạy và học bao gồm việc xây dựng các hệ thống học tập trực tuyến, hệ thống giáo trình, tài liệu điện tử, quản lý học sinh và đánh giá kết quả học tập.
2. Người dạy, người học thực hiện việc dạy và học bằng tiếng nước ngoài
Yêu cầu đối với người dạy
Yêu cầu về chuyên môn, nghiệp vụ
Đáp ứng yêu cầu về chuyên môn, nghiệp vụ, trình độ đào tạo, bồi dưỡng theo quy định đối với từng cấp học, trình độ đào tạo;
Về năng lực ngoại ngữ
Giáo viên dạy cấp tiểu học, cấp trung học cơ sở phải có năng lực ngoại ngữ tối thiểu bậc 4 theo Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam hoặc tương đương; giáo viên dạy cấp trung học phổ thông phải có năng lực ngoại ngữ tối thiểu bậc 5 theo Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam hoặc tương đương;
Người dạy tại các cơ sở giáo dục thường xuyên dạy các môn học, nội dung học tập thuộc chương trình giáo dục thường xuyên cấp trung học cơ sở phải có năng lực ngoại ngữ tối thiểu bậc 4 theo Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam hoặc tương đương;
Người dạy tại các cơ sở giáo dục thường xuyên dạy một số môn học, hoạt động giáo dục hoặc một số nội dung của một số môn học, hoạt động giáo dục của chương trình giáo dục thường xuyên cấp trung học phổ thông phải có năng lực ngoại ngữ tối thiểu bậc 5 theo Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam hoặc tương đương;
Người dạy tại các cơ sở giáo dục thường xuyên dạy các nội dung học tập thuộc các chương trình giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học phải có năng lực ngoại ngữ tối thiểu bậc 5 theo Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam hoặc tương đương;
Người dạy tại các cơ sở giáo dục thường xuyên dạy các nội dung học tập thuộc các chương trình giáo dục thường xuyên khác phải có năng lực ngoại ngữ tối thiểu bậc 4 theo Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam hoặc tương đương;
Người dạy các trình độ của giáo dục nghề nghiệp phải có năng lực ngoại ngữ tối thiểu bậc 5 theo Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam hoặc tương đương;
Giảng viên giảng dạy các trình độ giáo dục đại học phải có trình độ ngoại ngữ đáp ứng yêu cầu giảng dạy của chương trình đào tạo, tối thiểu bậc 5 theo Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam hoặc tương đương;
Người được đào tạo đại học, thạc sĩ, tiến sĩ toàn thời gian ở nước ngoài với ngoại ngữ là ngôn ngữ giảng dạy và có văn bằng tốt nghiệp được công nhận theo quy định hoặc có bằng tốt nghiệp cử nhân ngoại ngữ, sư phạm ngoại ngữ tại Việt Nam được miễn yêu cầu về năng lực ngoại ngữ theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều này.
Người học tham gia học những môn học, mô-đun, học phần và các nội dung, hoạt động giáo dục được dạy bằng tiếng nước ngoài theo tinh thần tự nguyện. Việc kiểm tra đầu vào đối với người học do cơ sở giáo dục thực hiện theo yêu cầu của Đề án dạy và học bằng tiếng nước ngoài được phê duyệt tại Điều 10, Điều 11 Nghị định này.
Trách nhiệm của người dạy và người học
Người dạy có trách nhiệm theo dõi, đánh giá khả năng tiếp thu kiến thức được dạy bằng tiếng nước ngoài của người học để có giải pháp điều chỉnh phù hợp bao gồm cả việc trao đổi, đề nghị người học chuyển sang lớp được dạy và học bằng tiếng Việt;
Người học có trách nhiệm tự nâng cao năng lực ngoại ngữ để đáp ứng yêu cầu của chương trình và báo cáo khả năng tiếp thu với người dạy. Trong trường hợp cần thiết, người học chủ động đề xuất với người dạy có giải pháp nâng cao chất lượng hoặc kiến nghị được chuyển sang lớp dạy và học bằng tiếng Việt.
3. Cơ sở vật chất, thiết bị dạy học
Các cơ sở giáo dục tổ chức dạy và học bằng tiếng nước ngoài phải có cơ sở vật chất, thiết bị dạy học đáp ứng quy định về tiêu chuẩn như đối với việc tổ chức dạy và học bằng tiếng Việt.
4. Trách nhiệm của Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
Chỉ đạo, hướng dẫn, tổ chức thực hiện Nghị định này đối với các cơ sở giáo dục thuộc thẩm quyền quản lý trên địa bàn.
Trình hội đồng nhân dân cấp tỉnh quy định về học phí để bảo đảm các điều kiện phục vụ cho việc dạy và học bằng tiếng nước ngoài đáp ứng nhu cầu và nguyện vọng của người học tại các cơ sở giáo dục công lập trên địa bàn quản lý, phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương.
Căn cứ chính sách phát triển giáo dục và điều kiện thực tế của địa phương, bố trí nguồn lực, tăng cường xã hội hóa, tạo điều kiện và có giải pháp khuyến khích việc dạy và học bằng tiếng nước ngoài.
Thanh tra, kiểm tra, xử lý khiếu nại, tố cáo và thực hiện chức năng quản lý nhà nước về việc dạy và học bằng tiếng nước ngoài đối với các cơ sở giáo dục trên địa bàn.
Nghị định số 222/2025/NĐ- CP có hiệu lực thi hành kể từ ngày 25/9/2025.
Kể từ ngày Nghị định này có hiệu lực, Quyết định số 72/2014/QĐ-TTg ngày 17/12/2014 của Thủ tướng Chính phủ quy định việc dạy và học bằng tiếng nước ngoài trong nhà trường và cơ sở giáo dục khác và Thông tư số 16/2016/TT-BGDĐT ngày 18/5/2016 của Bộ Giáo dục và Đào tạo hướng dẫn thực hiện một số nội dung của Quyết định số 72/2014/QĐ-TTg ngày 17/12/2014 của Thủ tướng Chính phủ quy định việc dạy và học bằng tiếng nước ngoài trong nhà trường và cơ sở giáo dục khác bị bãi bỏ./.
Tải về