Đối tượng bị xử lý vi phạm hành chính theo quy định đối với hành vi cản trở hoạt động tố tụng
Pháp lệnh Xử phạt vi phạm hành chính
đối với hành vi cản trở hoạt động tố tụng quy
định về hành vi cản trở hoạt động tố tụng bị xử phạt vi phạm hành chính; hình
thức, mức xử phạt; biện pháp khắc phục hậu quả; biện pháp ngăn chặn và bảo đảm
xử lý vi phạm hành chính; thẩm quyền, thủ tục xử phạt, thi hành quyết định xử
phạt và cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với hành
vi cản trở hoạt động tố tụng. Đối tượng bị xử lý vi phạm hành chính theo quy định đối với hành vi cản trở hoạt động tố tụng quy định như sau:
Đối tượng bị xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi cản
trở hoạt động tố tụng. Cá nhân quy định tại điểm a và điểm c khoản
1 Điều 5 của Luật Xử lý vi phạm hành chính thực hiện hành vi quy định tại
Chương II của Pháp lệnh này như sau:
Đối tượng bị xử lý vi phạm hành chính
1. Các đối tượng bị xử phạt vi phạm hành
chính bao gồm:
a) Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi bị xử
phạt vi phạm hành chính về vi phạm hành chính do cố ý; người từ đủ 16 tuổi trở
lên bị xử phạt vi phạm hành chính về mọi vi phạm hành chính.
Người thuộc lực lượng Quân đội nhân dân, Công
an nhân dân vi phạm hành chính thì bị xử lý như đối với công dân khác; trường
hợp cần áp dụng hình thức phạt tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành
nghề hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn liên quan đến quốc phòng, an ninh thì
người xử phạt đề nghị cơ quan, đơn vị Quân đội nhân dân, Công an nhân dân có
thẩm quyền xử lý;
b) Tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính về
mọi vi phạm hành chính do mình gây ra;
c) Cá nhân, tổ chức nước ngoài vi phạm hành
chính trong phạm vi lãnh thổ, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế
và thềm lục địa của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; trên tàu bay mang
quốc tịch Việt Nam, tàu biển mang cờ quốc tịch Việt Nam thì bị xử phạt vi phạm
hành chính theo quy định của pháp luật Việt Nam, trừ trường hợp điều ước quốc
tế mà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác.
2. Đối tượng bị áp dụng biện pháp xử lý hành
chính là cá nhân được quy định tại các điều 90, 92, 94 và 96 của Luật này.
Các biện pháp xử lý hành chính không áp dụng
đối với người nước ngoài.
Luật xử lý vi
phạm hành chính sửa đổi, bổ sung năm 2020 sửa đổi Điều 90 đối tượng bị áp dụng biện pháp giáo dục tại
xã, phường, thị trấn
1. Người từ đủ 12 tuổi đến dưới 14 tuổi thực hiện hành vi có dấu
hiệu của một tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý quy định tại Bộ luật Hình sự.
2. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện hành vi có dấu
hiệu của một tội phạm nghiêm trọng do cố ý quy định tại Bộ luật Hình sự.
3. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi đã 02 lần bị xử phạt vi
phạm hành chính và bị lập biên bản vi phạm hành chính tại lần vi phạm thứ ba
trong thời hạn 06 tháng về một trong các hành vi gây rối trật tự công cộng,
trộm cắp tài sản, đánh bạc, lừa đảo, đua xe trái phép.
4. Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi đã 02 lần bị xử phạt vi
phạm hành chính và bị lập biên bản vi phạm hành chính tại lần vi phạm thứ ba
trong thời hạn 06 tháng về một trong các hành vi xúc phạm nhân phẩm, danh dự
của người khác, gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác, chiếm giữ trái
phép tài sản, hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản
của người khác, gây rối trật tự công cộng, trộm cắp tài sản, đánh bạc, lừa đảo,
đua xe trái phép nhưng không phải là tội phạm.
5. Người từ đủ 14 tuổi trở lên đã 02 lần bị xử phạt vi phạm hành
chính và bị lập biên bản vi phạm hành chính tại lần vi phạm thứ ba trong thời
hạn 06 tháng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.
6. Người từ đủ 18 tuổi trở lên đã 02 lần bị xử phạt vi phạm hành
chính và bị lập biên bản vi phạm hành chính tại lần vi phạm thứ ba trong thời
hạn 06 tháng về một trong các hành vi xúc phạm nhân phẩm, danh dự của người
khác, gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, chiếm giữ
trái phép tài sản, hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác, gây
rối trật tự công cộng, trộm cắp tài sản, đánh bạc, lừa đảo, đua xe trái phép,
ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu hoặc người có công
nuôi dưỡng mình nhưng không phải là tội phạm.
7. Người quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 và người từ đủ 14 tuổi
đến dưới 18 tuổi quy định tại khoản 5 Điều này mà không có nơi cư trú ổn định
thì được giao cho cơ sở bảo trợ xã hội hoặc cơ sở trợ giúp trẻ em để quản lý,
giáo dục trong thời gian chấp hành biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn.
Người từ đủ 18 tuổi trở lên quy định tại khoản 5 Điều này mà không
có nơi cư trú ổn định thì giao cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi phát hiện hành vi
sử dụng trái phép chất ma túy lần thứ ba tổ chức quản lý.
Luật xử lý vi phạm hành
chính sửa đổi, bổ sung năm 2020 Sửa đổi, bổ sung Điều 92 như sau:
“Điều
92. Đối tượng bị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng
1. Người từ đủ 12 tuổi
đến dưới 14 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng quy định tại Bộ luật Hình sự.
2. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện hành vi có dấu
hiệu của một tội phạm rất nghiêm trọng hoặc một tội phạm đặc biệt nghiêm trọng
quy định tại Bộ luật Hình sự, trừ những tội phạm quy định tại khoản 2 Điều 12
của Bộ luật Hình sự.
3. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện một trong các
hành vi quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 90 của Luật này và trước đó đã bị áp
dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn.
4. Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi thực hiện một trong các
hành vi quy định tại khoản 4 Điều 90 của Luật này nhưng không
phải là tội phạm và trước đó đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường,
thị trấn.
5. Không áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng đối với các
trường hợp sau đây:
a) Người không có năng lực trách nhiệm hành chính;
b) Người đang mang thai có chứng nhận của cơ sở khám bệnh, chữa
bệnh từ tuyến huyện trở lên;
c) Phụ nữ hoặc người duy nhất đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi
được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú xác nhận.”.
Luật
xử lý vi phạm hành chính sửa đổi, bổ sung năm 2020 Sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 94 như sau:
“1. Đối tượng bị áp dụng biện
pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc bao gồm:
a) Người từ đủ 18 tuổi trở lên
đã 02 lần bị xử phạt vi phạm hành chính và bị lập biên bản vi phạm hành chính
tại lần vi phạm thứ ba trong thời hạn 06 tháng về một trong các hành vi quy
định tại khoản 6 Điều 90 của Luật này nhưng không phải là tội phạm và không có
nơi cư trú ổn định;
b) Người từ đủ 18 tuổi trở lên
thực hiện một trong các hành vi quy định tại khoản 6 Điều 90 của Luật này nhưng
không phải là tội phạm và trước đó đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã,
phường, thị trấn.”.
Khoản 2, Điều 94 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định không áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo
dục bắt buộc đối với các trường hợp sau đây:
a) Người
không có năng lực trách nhiệm hành chính;
b) Người
chưa đủ 18 tuổi;
c) Nữ trên
55 tuổi, nam trên 60 tuổi;
d) Người
đang mang thai có chứng nhận của bệnh viện;
đ) Phụ nữ
hoặc người duy nhất đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi được Uỷ ban nhân dân
cấp xã nơi người đó cư trú xác nhận.
Sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 96 như sau: “1. Người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở
lên thuộc trường hợp bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
theo quy định của Luật Phòng, chống ma túy.”.
Khoản 2 Điều 96 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 Không áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở
cai nghiện bắt buộc đối với các trường hợp sau đây:
a) Người không có năng lực trách nhiệm hành chính;
b) Người đang mang thai có chứng nhận của bệnh viện;
c) Phụ nữ hoặc người duy nhất đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng
tuổi được Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú xác nhận.
Trường hợp
cán bộ, công chức, viên chức, người thuộc lực lượng Quân đội nhân dân, Công an
nhân dân, người làm công tác cơ yếu thực hiện hành vi cản trở hoạt động tố tụng khi đang
thi hành công vụ, nhiệm vụ và hành vi vi phạm đó thuộc công vụ, nhiệm vụ thì
không bị xử phạt theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính mà bị
xử lý theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức, viên chức và quy định
khác của pháp luật có liên
quan, trừ trường hợp quy định tại Điều 495 của Bộ luật Tố tụng
dân sự, Điều 324 và khoản 1 Điều 325 của Luật Tố tụng hành
chính.
Trường hợp
Hội thẩm thực hiện hành vi cản trở hoạt động tố tụng khi đang thực hiện nhiệm vụ của Hội thẩm
thì không bị xử phạt theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính mà
bị xử lý theo quy định của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân và quy định khác của
pháp luật có liên quan.
Tổ chức quy
định tại điểm b và điểm c khoản 1 Điều 5 của Luật Xử lý vi phạm
hành chính thực hiện hành vi quy định tại Chương II của Pháp lệnh này.