Quy định về Giao dịch dân sự vô hiệu áp dụng đối với hợp đồng vô hiệu
Tại chương VIII Bộ luật dân sự 2015 quy định về giao
dịch dân sự vô hiệu từ Điều 123 đến Điều 133 của Bộ luật này cũng được áp dụng
đối với hợp đồng vô hiệu
Quy định Hợp
đồng vô hiệu tại Điều 407 Bộ luật dân sự 2015 quy định
về giao dịch dân sự vô hiệu từ Điều 123 đến Điều 133 của Bộ luật này cũng được
áp dụng đối với hợp đồng vô hiệu.
Sự vô hiệu của hợp đồng chính làm chấm dứt hợp
đồng phụ, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận hợp đồng phụ được thay thế hợp
đồng chính. Quy định này không áp dụng đối với biện pháp bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ.
Sự vô hiệu của hợp đồng phụ không làm chấm dứt
hợp đồng chính, trừ trường hợp các bên thỏa thuận hợp đồng phụ là một phần
không thể tách rời của hợp đồng chính.
Giao dịch dân sự vô hiệu
Giao
dịch dân sự không có một trong các điều kiện được quy định tại Điều 117 của Bộ
luật về điều kiện có
hiệu lực của giao dịch dân sự
“1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các
điều kiện sau đây:
a) Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng
lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập;
b) Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn
tự nguyện;
c) Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự
không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.
2. Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện
có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định.” này thì
vô hiệu, trừ trường hợp Bộ luật này có quy định khác.
Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm
của luật, trái đạo đức xã hội
Giao
dịch dân sự có mục đích, nội dung vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã
hội thì vô hiệu.
Điều
cấm của luật là những quy định của luật không cho phép chủ thể thực hiện những
hành vi nhất định.
Đạo đức
xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung trong đời sống xã hội, được cộng đồng
thừa nhận và tôn trọng.
Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo
Khi các
bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch dân
sự khác thì giao dịch dân sự giả tạo vô hiệu, còn giao dịch dân sự bị che giấu
vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ
luật này hoặc luật khác có liên quan.
Trường
hợp xác lập giao dịch dân sự giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba
thì giao dịch dân sự đó vô hiệu.
Giao dịch dân sự vô hiệu do người chưa thành
niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm
chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện
Khi
giao dịch dân sự do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự,
người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc người bị hạn chế năng
lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện thì theo yêu cầu của người đại diện của
người đó, Tòa án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu nếu theo quy định của pháp luật
giao dịch này phải do người đại diện của họ xác lập, thực hiện hoặc đồng ý, trừ
trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.
Giao
dịch dân sự của người quy định tại khoản 1 Điều này không bị vô hiệu trong
trường hợp sau đây:
a) Giao dịch dân sự của người chưa đủ sáu
tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu hàng
ngày của người đó;
b) Giao dịch dân sự chỉ làm phát sinh quyền
hoặc chỉ miễn trừ nghĩa vụ cho người chưa thành niên, người mất năng lực hành
vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế
năng lực hành vi dân sự với người đã xác lập, thực hiện giao dịch với họ;
c) Giao dịch dân sự được người xác lập giao
dịch thừa nhận hiệu lực sau khi đã thành niên hoặc sau khi khôi phục năng lực
hành vi dân sự.
Giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn
Trường
hợp giao dịch dân sự được xác lập có sự nhầm lẫn làm cho một bên hoặc các bên
không đạt được mục đích của việc xác lập giao dịch thì bên bị nhầm lẫn có quyền
yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu, trừ trường hợp quy định tại
khoản 2 Điều này.
Giao
dịch dân sự được xác lập có sự nhầm lẫn không vô hiệu trong trường hợp mục đích
xác lập giao dịch dân sự của các bên đã đạt được hoặc các bên có thể khắc phục
ngay được sự nhầm lẫn làm cho mục đích của việc xác lập giao dịch dân sự vẫn
đạt được.
Giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe
dọa, cưỡng ép
Khi một
bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe dọa, cưỡng ép thì có
quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.
Lừa dối
trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm
làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung
của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó.
Đe dọa,
cưỡng ép trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba
làm cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch dân sự nhằm tránh thiệt hại về
tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của
người thân thích của mình.
Giao dịch dân sự vô hiệu do người xác lập
không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình
Người
có năng lực hành vi dân sự nhưng đã xác lập giao dịch vào đúng thời điểm không
nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố
giao dịch dân sự đó là vô hiệu.
Giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy
định về hình thức
Giao
dịch dân sự vi phạm quy định điều kiện có hiệu lực về hình thức thì vô hiệu,
trừ trường hợp sau đây:
Giao dịch dân sự đã được xác lập theo quy định
phải bằng văn bản nhưng văn bản không đúng quy định của luật mà một bên hoặc
các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu
cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao
dịch đó.
Giao dịch dân sự đã được xác lập bằng văn bản
nhưng vi phạm quy định bắt buộc về công chứng, chứng thực mà một bên hoặc các
bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu
của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch
đó. Trong trường hợp này, các bên không phải thực hiện việc công chứng, chứng
thực.
Giao dịch dân sự vô hiệu từng phần
Giao
dịch dân sự vô hiệu từng phần khi một phần nội dung của giao dịch dân sự vô
hiệu nhưng không ảnh hưởng đến hiệu lực của phần còn lại của giao dịch.
Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu.
Giao
dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân
sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập. Khi giao dịch dân sự vô
hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì
đã nhận. Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành
tiền để hoàn trả.
Bên
ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi
tức đó.
Bên có
lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường.
Việc
giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu liên quan đến quyền nhân thân
do Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định.
Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch
dân sự vô hiệu
1. Thời
hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu quy định tại các Điều
125, 126, 127, 128 và 129 của Bộ luật này là 02 năm, kể từ ngày:
a) Người đại diện của người chưa thành niên,
người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ
hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự biết hoặc phải biết người
được đại diện tự mình xác lập, thực hiện giao dịch;
b) Người bị nhầm lẫn, bị lừa dối biết hoặc
phải biết giao dịch được xác lập do bị nhầm lẫn, do bị lừa dối;
c) Người có hành vi đe dọa, cưỡng ép chấm dứt
hành vi đe dọa, cưỡng ép;
d) Người không nhận thức và làm chủ được hành
vi của mình xác lập giao dịch;
đ) Giao dịch dân sự được xác lập trong trường
hợp giao dịch dân sự không tuân thủ quy định về hình thức.
2. Hết
thời hiệu quy định tại khoản 1 Điều này mà không có yêu cầu tuyên bố giao dịch
dân sự vô hiệu thì giao dịch dân sự có hiệu lực.
3. Đối
với giao dịch dân sự quy định tại Điều 123 và Điều 124 của Bộ luật này thì thời
hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu không bị hạn chế.
Bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình
khi giao dịch dân sự vô hiệu
Trường
hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng đối tượng của giao dịch là tài sản không
phải đăng ký đã được chuyển giao cho người thứ ba ngay tình thì giao dịch được
xác lập, thực hiện với người thứ ba vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp quy định
tại Điều 167 của Bộ luật này.
Trường
hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước
có thẩm quyền, sau đó được chuyển giao bằng một giao dịch dân sự khác cho người
thứ ba ngay tình và người này căn cứ vào việc đăng ký đó mà xác lập, thực hiện
giao dịch thì giao dịch đó không bị vô hiệu.
Trường
hợp tài sản phải đăng ký mà chưa được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm
quyền thì giao dịch dân sự với người thứ ba bị vô hiệu, trừ trường hợp người
thứ ba ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá tại tổ chức có
thẩm quyền hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó chủ thể này không phải là
chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị hủy, sửa.
Chủ sở
hữu không có quyền đòi lại tài sản từ người thứ ba ngay tình, nếu giao dịch dân
sự với người này không bị vô hiệu theo quy định tại khoản 2 Điều này nhưng có
quyền khởi kiện, yêu cầu chủ thể có lỗi dẫn đến việc giao dịch được xác lập với
người thứ ba phải hoàn trả những chi phí hợp lý và bồi thường thiệt hại.