Một số quy định về xác định thiệt hại do tài sản bị xâm phạm theo quy định của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước
Nghị định số
68/2018/NĐ-CP ngày 15 tháng 05 năm 2018 của Chính phủ quy định chi tiết một số Điều và biện pháp thi hành Luật Trách nhiệm bồi
thường của Nhà nước.
Nghị định này
quy định chi tiết một số Điều của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước (sau
đây gọi là Luật) về thiệt hại được bồi thường, thủ tục giải quyết yêu cầu bồi
thường, trách nhiệm hoàn trả của người thi hành công vụ gây thiệt hại và một số
biện pháp tổ chức thi hành Luật.
Nghị định này
áp dụng đối với cơ quan giải quyết bồi thường, cơ quan quản lý nhà nước về công
tác bồi thường nhà nước, người bị thiệt hại, người yêu cầu bồi thường, người giải
quyết bồi thường, người thi hành công vụ gây thiệt hại và cơ quan, tổ chức, cá
nhân khác có liên quan đến công tác bồi thường nhà nước.
Xác định thiệt hại do tài sản bị xâm phạm quy định tại
Điều 23 của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước như sau:
Trường hợp
tài sản đã bị phát mại, bị mất thì thiệt hại được xác định căn cứ vào giá thị
trường của tài sản cùng loại hoặc tài sản có cùng tính năng, tiêu chuẩn kỹ
thuật, tác dụng và mức độ hao mòn của tài sản trên thị trường tại thời điểm quy
định tại khoản 2 Điều 22: Giá trị thiệt hại được bồi thường được tính tại
thời điểm thụ lý hồ sơ yêu cầu bồi thường quy định tại Điều 43 của Luật này
hoặc tại thời điểm Tòa án cấp sơ thẩm xác định giá trị thiệt hại đối với trường
hợp quy định tại khoản 1 Điều 52 và Điều 55 của Luật này. Trường hợp người yêu
cầu bồi thường khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết yêu cầu bồi thường theo quy
định tại khoản 2 Điều 52 của Luật này thì giá trị thiệt hại vẫn được tính tại
thời điểm thụ lý hồ sơ yêu cầu bồi thường trước đó.. Thời
điểm để xác định hiện trạng tài sản làm căn cứ tính mức bồi thường là thời điểm
thiệt hại xảy ra.
Trường hợp
tài sản bị hư hỏng thì thiệt hại được xác định là chi phí có liên quan theo giá
thị trường tại thời điểm quy định tại khoản 2 Điều 22 của Luật này để sửa chữa,
khôi phục lại tài sản; nếu tài sản bị hư hỏng không thể sửa chữa, khôi phục thì
thiệt hại được xác định theo quy định tại khoản 1 Điều này.
Trường hợp
có thiệt hại phát sinh do việc không sử dụng, khai thác tài sản thì thiệt hại
được xác định là thu nhập thực tế bị mất. Đối với những tài sản trên thị trường
có cho thuê, thu nhập thực tế bị mất được xác định phù hợp với mức giá thuê
trung bình 01 tháng của tài sản cùng loại hoặc tài sản có cùng tiêu chuẩn kỹ
thuật, tính năng, tác dụng và chất lượng tại thời điểm quy định tại khoản 2
Điều 22 của Luật này; đối với những tài sản trên thị trường không có cho thuê,
thu nhập thực tế bị mất được xác định trên cơ sở thu nhập trung bình của 03
tháng liền kề do tài sản bị thiệt hại mang lại trong điều kiện bình thường
trước thời điểm thiệt hại xảy ra.
Trường hợp
các khoản tiền đã nộp vào ngân sách nhà nước theo quyết định của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền hoặc các khoản tiền bị tịch thu, thi hành án, khoản tiền đã
đặt để bảo đảm theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền thì phải hoàn trả các
khoản tiền đó và khoản lãi cho người bị thiệt hại. Trường hợp các khoản
tiền đó là khoản vay có lãi thì khoản lãi được tính là khoản lãi vay hợp pháp
theo quy định của Bộ luật Dân sự. Trường hợp các khoản tiền đó không
phải là khoản vay có lãi thì khoản lãi được tính theo lãi suất phát sinh do chậm trả tiền trong trường hợp không có
thỏa thuận theo quy định của Bộ luật Dân sự tại thời điểm quy định tại khoản 2 Điều 22
của Luật này.
Trường hợp
người bị thiệt hại không thể thực hiện được các giao dịch dân sự, kinh tế đã có
hiệu lực và đã phải thanh toán tiền phạt do vi phạm nghĩa vụ trong giao dịch
dân sự, kinh tế đó thì thiệt hại được xác định là số tiền phạt theo mức phạt đã
thỏa thuận và khoản lãi của khoản tiền phạt đó. Trường hợp khoản tiền
phạt đó là khoản vay có lãi thì khoản lãi được tính là khoản lãi vay hợp pháp
theo quy định của Bộ luật Dân sự. Trường hợp khoản tiền phạt đó không
phải là khoản vay có lãi thì khoản lãi được tính theo lãi suất phát sinh do chậm trả tiền trong trường hợp không có
thỏa thuận theo quy định của Bộ luật Dân sự tại thời điểm quy định tại khoản 2 Điều 22
của Luật này.
Trường hợp
thiệt hại xảy ra do vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết thì thiệt hại được
bồi thường là phần thiệt hại do vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết.
Chính phủ quy định chi tiết Điều 23 này cụ thể
tại Điều 3 Nghị định số
68/2018/NĐ-CP ngày 15 tháng 05 năm
2018 của Chính phủ quy định chi tiết một số Điều và biện pháp thi hành Luật
Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước như sau:
1. Giá thị
trường của tài sản cùng loại hoặc tài sản có cùng tính năng, tiêu chuẩn kỹ thuật,
tác dụng và chất lượng trên thị trường quy định tại Khoản 1 Điều
23 của Luật: “1. Trường hợp tài sản đã bị phát mại, bị mất
thì thiệt hại được xác định căn cứ vào giá thị trường của tài sản cùng loại hoặc
tài sản có cùng tính năng, tiêu chuẩn kỹ thuật, tác dụng và mức độ hao mòn của
tài sản trên thị trường tại thời điểm quy định tại khoản 2 Điều 22 của Luật
này. Thời điểm để xác định hiện trạng tài sản làm căn cứ tính mức bồi thường là
thời điểm thiệt hại xảy ra” là giá giao dịch phổ biến trung bình trên thị
trường của 03 tài sản đó do 03 cơ sở kinh doanh khác nhau trên thị trường cung
cấp.
2. Thị trường
quy định tại Khoản 1 Điều 23 của Luật là thị trường trong phạm
vi huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi là thị trường cấp huyện)
nơi phát sinh thiệt hại thực tế.
Trường hợp thị
trường cấp huyện nơi phát sinh thiệt hại thực tế không có tài sản cùng loại hoặc
tài sản có cùng tính năng, tiêu chuẩn kỹ thuật, tác dụng và chất lượng thì thị
trường là thị trường cấp huyện gần nhất với nơi phát sinh thiệt hại thực tế
trong phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
3. Mức độ hao
mòn của tài sản quy định tại Khoản 1 Điều 23 của Luật được
xác định theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng, trích khấu hao tài sản
cố định.
4. Giá thị
trường để sửa chữa, khôi phục lại tài sản bị hư hỏng quy định tại Khoản
2 Điều 23 của Luật: “ 2. Trường
hợp tài sản bị hư hỏng thì thiệt hại được xác định là chi phí có liên quan theo
giá thị trường tại thời điểm quy định tại khoản 2 Điều 22 của Luật này để sửa
chữa, khôi phục lại tài sản; nếu tài sản bị hư hỏng không thể sửa chữa, khôi phục
thì thiệt hại được xác định theo quy định tại khoản 1 Điều này” là giá
giao dịch phổ biến trung bình trên thị trường cấp huyện theo quy định tại Khoản
2 Điều này để sửa chữa, khôi phục lại tài sản do 03 cơ sở dịch vụ sửa chữa,
khôi phục khác nhau trên thị trường cung cấp.
5. Trường hợp
không xác định được giá thị trường theo quy định tại Khoản 1 và Khoản 4 Điều
này thì cơ quan giải quyết bồi thường định giá tài sản theo quy định tại Khoản
1 Điều 17 Nghị định quy định:
“1. Việc định
giá tài sản được thực hiện trong các trường hợp sau đây:
a) Không xác
định được giá thị trường theo quy định tại các Khoản 1 và 4 Điều 3 Nghị định
này;
b) Không có
tài sản cùng loại hoặc tài sản có cùng tính năng, tiêu chuẩn kỹ thuật, tác dụng
và chất lượng với tài sản bị thiệt hại trên thị trường tại thời điểm tiến hành
xác minh thiệt hại;
c) Có sự thay
đổi về hiện trạng của tài sản bị thiệt hại tại thời điểm xác minh thiệt hại so
với ngày phát sinh thiệt hại thực tế dẫn đến làm thay đổi tính năng, tiêu chuẩn
kỹ thuật, tác dụng và chất lượng của tài sản.”
6. Mức giá
thuê trung bình 01 tháng của động sản cùng loại hoặc có cùng tính năng, tiêu
chuẩn kỹ thuật, tác dụng và chất lượng quy định tại Khoản 3 Điều
23 của Luật là mức giá thuê trung bình 01 tháng của 03 tài sản đó do 03 cơ
sở khác nhau cho thuê trên thị trường cung cấp. Thị trường được xác định theo
quy định tại Khoản 2 Điều này.
Mức giá thuê
trung bình 01 tháng đối với bất động sản là mức giá thuê trung bình của 03 bất
động sản cùng loại, cùng chất lượng do 03 cơ sở khác nhau cho thuê trên thị trường
cung cấp. Thị trường được xác định theo quy định tại Khoản 2 Điều này.
7. Thời điểm
thiệt hại xảy ra quy định tại Khoản 1 và Khoản 3 Điều 23 của
Luật là ngày phát sinh thiệt hại thực tế.