Quy định về Hợp đồng bảo hiểm tài sản, hợp đồng bảo hiểm thiệt hại trong Luật Kinh doanh bảo hiểm
Theo Điều 105 Bộ
luật Dân sự năm 2015, tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản.
Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là
tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai. Tại
mục 3, Chương 2 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2022 quy định về Hợp đồng bảo hiểm tài sản, hợp đồng bảo hiểm thiệt hại từ Điều 43 đến Điều 56
như sau:
Đối tượng bảo hiểm của hợp đồng bảo hiểm tài sản
là tài sản theo quy định của Bộ luật Dân sự. Đối tượng bảo hiểm của hợp đồng bảo hiểm thiệt
hại là bất kỳ lợi ích kinh tế hoặc nghĩa vụ thực hiện hợp đồng hoặc nghĩa vụ
theo pháp luật mà người được bảo hiểm phải gánh chịu khi xảy ra tổn thất.
Quyền lợi có thể được bảo hiểm của hợp đồng bảo hiểm tài sản, hợp đồng
bảo hiểm thiệt hại
Đối với hợp đồng bảo hiểm tài
sản, bên mua bảo hiểm có quyền lợi có thể được bảo hiểm khi có quyền sở hữu;
quyền khác đối với tài sản; quyền chiếm hữu, quyền sử dụng của người không phải
là chủ sở hữu.
Đối với hợp đồng bảo hiểm thiệt
hại, bên mua bảo hiểm có quyền lợi có thể được bảo hiểm khi có quyền lợi về tài
chính; nghĩa vụ, trách nhiệm về tài chính; thiệt hại kinh tế đối với đối tượng
bảo hiểm.
Tại thời điểm xảy ra tổn thất,
bên mua bảo hiểm hoặc người được bảo hiểm phải có quyền lợi có thể được bảo
hiểm.
Số tiền bảo hiểm là số tiền mà
bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm, chi nhánh doanh nghiệp bảo hiểm phi
nhân thọ nước ngoài thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm để bảo hiểm cho tài sản và thiệt hại trên cơ sở yêu cầu của bên mua bảo
hiểm theo quy định của Luật này.
Bên mua bảo hiểm phải thông báo
cho doanh nghiệp bảo hiểm, chi nhánh doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nước
ngoài khi biết sự kiện bảo hiểm xảy ra theo thời hạn thỏa thuận trong hợp đồng
bảo hiểm. Trường hợp bên mua bảo hiểm không thực hiện hoặc chậm thực hiện nghĩa
vụ này, doanh nghiệp bảo hiểm, chi nhánh doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ
nước ngoài có quyền giảm trừ số tiền phải bồi thường bảo hiểm tương ứng với thiệt hại
mà doanh nghiệp bảo hiểm, chi nhánh doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nước
ngoài phải chịu, trừ trường hợp có sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách
quan. Doanh nghiệp bảo hiểm, chi nhánh doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nước
ngoài không được áp dụng quy định tại khoản 1 Điều này nếu hợp đồng bảo hiểm
không có thỏa thuận về trách nhiệm của bên mua bảo hiểm, các biện pháp chế tài
trong việc không thực hiện hoặc chậm thực hiện nghĩa vụ thông báo về sự kiện
bảo hiểm.
Hợp đồng bảo hiểm tài sản trên
giá trị là hợp đồng trong đó số tiền bảo hiểm cao hơn giá thị trường của tài
sản được bảo hiểm tại thời điểm giao kết hợp đồng. Doanh nghiệp bảo hiểm, chi
nhánh doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài và bên mua bảo hiểm không
được cố ý giao kết hợp đồng bảo hiểm tài sản trên giá trị.
Trường hợp hợp đồng bảo hiểm tài
sản trên giá trị được giao kết do lỗi vô ý của bên mua bảo hiểm thì thực hiện
như sau:
Nếu chưa xảy ra sự kiện bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm,
chi nhánh doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài phải hoàn lại cho bên
mua bảo hiểm số phí bảo hiểm đã đóng tương ứng với số tiền bảo hiểm vượt quá
giá thị trường của tài sản được bảo hiểm tại thời
điểm giao kết hợp đồng sau khi trừ các chi phí
hợp lý (nếu có) theo thỏa
thuận trong hợp đồng bảo hiểm;
Nếu xảy ra
sự kiện bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm, chi nhánh doanh nghiệp bảo hiểm phi
nhân thọ nước ngoài chỉ chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại tương ứng với giá
thị trường của tài sản được bảo hiểm tại thời điểm xảy ra thiệt hại và phải
hoàn lại cho bên mua bảo hiểm số phí bảo hiểm đã đóng tương ứng với số tiền bảo
hiểm vượt quá giá thị trường của tài sản được bảo hiểm tại thời điểm giao kết hợp đồng sau khi trừ các chi phí hợp lý (nếu có) theo thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm.
Hợp đồng bảo hiểm tài sản dưới giá trị là hợp
đồng trong đó số tiền bảo hiểm thấp hơn giá thị trường của tài sản được bảo
hiểm tại thời điểm giao kết hợp đồng.
Trường hợp hợp đồng bảo hiểm tài
sản dưới giá trị được giao kết, doanh nghiệp bảo hiểm, chi nhánh doanh nghiệp
bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài chỉ chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo tỷ lệ tương ứng với
số tiền bảo hiểm và giá thị trường của tài sản được bảo hiểm tại thời điểm giao
kết hoặc thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm.
Hợp đồng bảo hiểm trùng là trường
hợp có từ hai hợp đồng bảo hiểm trở lên để bảo hiểm cho cùng phạm vi, đối
tượng, thời hạn và sự kiện bảo hiểm mà tổng số tiền bảo hiểm vượt quá giá thị
trường của tài sản được bảo hiểm tại thời điểm giao kết hợp đồng bảo hiểm.
Trường hợp các bên giao kết hợp đồng bảo hiểm trùng, khi xảy ra sự kiện bảo
hiểm, số tiền bồi thường của mỗi hợp đồng bảo hiểm được tính tương ứng theo tỷ
lệ giữa số tiền bảo hiểm đã thoả thuận trên tổng số tiền bảo hiểm của tất cả
các hợp đồng mà bên mua bảo hiểm đã giao kết. Tổng số tiền bồi thường của các
hợp đồng bảo hiểm không vượt quá
giá trị thiệt hại thực tế của tài sản.
Doanh nghiệp bảo hiểm, chi nhánh
doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài không chịu trách nhiệm bồi thường
trong trường hợp tài sản được bảo hiểm bị tổn thất do hao mòn tự nhiên hoặc do
bản chất vốn có của tài sản, trừ trường hợp có thoả thuận khác trong hợp đồng
bảo hiểm.
Căn cứ bồi thường
Số tiền bồi thường mà doanh
nghiệp bảo hiểm, chi nhánh doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài phải
trả cho người được bảo hiểm được xác định trên cơ sở giá thị trường của tài sản
được bảo hiểm tại thời điểm, nơi xảy ra tổn thất và mức độ thiệt hại thực tế,
trừ trường hợp có thoả thuận khác trong hợp đồng bảo hiểm. Chi phí để xác định
giá thị trường và mức độ thiệt hại do doanh nghiệp bảo hiểm, chi nhánh doanh
nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài chi trả.
Số tiền bồi thường mà doanh
nghiệp bảo hiểm, chi nhánh doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài trả
cho người được bảo hiểm không vượt quá số tiền bảo hiểm, trừ trường hợp có thỏa
thuận khác trong hợp đồng bảo hiểm.
Ngoài số tiền bồi thường, doanh
nghiệp bảo hiểm, chi nhánh doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài còn
phải trả cho người được bảo hiểm những chi phí cần thiết, hợp lý theo thỏa
thuận trong hợp đồng bảo hiểm để đề phòng, hạn chế tổn thất và những chi phí
phát sinh mà bên mua bảo hiểm hoặc người được bảo hiểm phải chịu để thực hiện
theo hướng dẫn của doanh nghiệp bảo hiểm, chi nhánh doanh nghiệp bảo hiểm phi
nhân thọ nước ngoài.
Hình thức bồi thường
Bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp
bảo hiểm, chi nhánh doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài có thể thoả
thuận một trong các hình thức bồi thường sau đây:
Sửa chữa tài sản bị thiệt hại;
Thay thế tài sản bị thiệt hại bằng tài sản
khác;
Trả tiền bồi thường.
Trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm, chi nhánh
doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài và bên mua bảo hiểm không thoả
thuận được về hình thức bồi thường thì việc bồi thường được thực hiện bằng
tiền.
Trường hợp bồi thường quy định tại điểm b và
điểm c khoản 1 Điều này, doanh nghiệp bảo hiểm, chi nhánh doanh nghiệp bảo hiểm
phi nhân thọ nước ngoài có quyền thu hồi tài sản bị thiệt hại sau khi đã thay
thế hoặc bồi thường toàn bộ theo giá thị trường của tài sản.
Khi xảy ra sự kiện bảo hiểm, doanh nghiệp bảo
hiểm, chi nhánh doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài hoặc người được
doanh nghiệp bảo hiểm, chi nhánh doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài
ủy quyền thực hiện việc giám định tổn thất để xác định nguyên nhân và mức độ
tổn thất. Chi phí giám định tổn thất do doanh nghiệp bảo hiểm, chi nhánh doanh
nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài chi trả. Trường hợp các bên không thống
nhất về nguyên nhân và mức độ tổn thất thì có thể thỏa thuận thuê giám định
viên độc lập, trừ trường hợp có thoả thuận khác trong hợp đồng bảo hiểm. Trường
hợp các bên không thoả thuận được việc thuê giám định viên độc lập thì một
trong các bên có quyền yêu
cầu Toà án có thẩm quyền hoặc Trọng tài trưng cầu giám định viên độc lập. Kết
luận của giám định viên độc lập có giá trị bắt buộc đối với các bên.
Chuyển quyền yêu cầu bồi hoàn
Khi xảy ra sự kiện bảo hiểm,
trường hợp người thứ ba có trách nhiệm bồi thường do hành vi gây thiệt hại cho
người được bảo hiểm thì thực hiện như sau:
Sau khi doanh nghiệp bảo hiểm, chi nhánh
doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài trả tiền bồi thường, người được bảo hiểm có trách nhiệm chuyển cho doanh nghiệp bảo hiểm, chi
nhánh doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài quyền yêu cầu người thứ ba
bồi hoàn số
tiền mà doanh nghiệp đã bồi thường;
Doanh nghiệp bảo hiểm, chi nhánh
doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài có quyền khấu trừ số tiền bồi
thường tùy theo mức độ lỗi của người được bảo hiểm nếu người được bảo hiểm từ
chối chuyển quyền yêu cầu người thứ ba bồi hoàn.
Khi doanh nghiệp bảo hiểm, chi
nhánh doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài thực hiện quyền yêu cầu bồi
hoàn đối với người thứ ba, người được bảo hiểm có trách nhiệm cung cấp cho
doanh nghiệp bảo hiểm, chi nhánh doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài
các tài liệu cần thiết và thông tin liên quan theo thỏa thuận trong hợp đồng
bảo hiểm.
Doanh nghiệp bảo hiểm, chi nhánh doanh nghiệp
bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài không được yêu cầu cha, mẹ, vợ, chồng, con của người được
bảo hiểm bồi hoàn khoản tiền mà doanh nghiệp bảo hiểm, chi nhánh doanh nghiệp bảo hiểm
phi nhân thọ nước ngoài đã trả cho người được bảo hiểm, trừ trường hợp những
người này cố ý gây ra tổn thất.
Người được bảo hiểm phải thực hiện các quy
định về phòng cháy, chữa cháy, an toàn lao động, vệ sinh lao động và những quy
định khác của pháp luật có liên quan nhằm bảo đảm an toàn cho đối tượng bảo
hiểm. Doanh nghiệp bảo hiểm, chi nhánh doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài
có quyền
kiểm tra các điều kiện bảo đảm an toàn cho đối tượng bảo hiểm hoặc khuyến nghị,
yêu cầu người được bảo hiểm áp dụng các biện pháp đề phòng, hạn chế rủi ro.
Trường hợp người được bảo hiểm không thực hiện các biện pháp bảo đảm an toàn
cho đối tượng bảo hiểm thì doanh nghiệp bảo hiểm, chi nhánh doanh nghiệp bảo hiểm
phi nhân thọ nước ngoài có quyền ấn định một thời hạn để người được bảo hiểm thực
hiện các biện pháp đó. Nếu hết thời hạn này mà các biện pháp bảo đảm an toàn
vẫn không được thực hiện thì doanh nghiệp bảo hiểm, chi nhánh doanh nghiệp bảo hiểm
phi nhân thọ nước ngoài có quyền tăng phí bảo hiểm hoặc đơn phương chấm dứt thực
hiện hợp đồng bảo hiểm.
Trường hợp xảy ra tổn thất, người
được bảo hiểm không được từ bỏ tài sản được bảo hiểm và phải áp dụng các biện
pháp cần thiết mà khả năng cho phép để ngăn chặn hoặc giảm thiểu tổn thất, trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác hoặc các bên có thỏa thuận khác.