Thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững tỉnh Lào Cai, năm 2023
Trong năm
2022, với với sự quyết tâm, lãnh đạo chỉ đạo quyết liệt, sáng tạo, linh hoạt của
Tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh Lào Cai, sự vào cuộc của cả hệ
thống chính trị - xã hội; cấp uỷ, chính quyền các cấp trong triển khai thực hiện
các Chương trình MTQG, tỉnh Lào Cai đã ban hành các kế hoạch thực hiện cho cả
giai đoạn và hàng năm; chủ động, kịp thời ban hành các quy định, hướng dẫn tạo
thuận lợi cho việc triển khai thực hiện Chương trình MTQG GNBV tại cơ sở và
phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong phong trào xây dựng nông thôn
mới và giảm nghèo bền vững. Là địa phương đi đầu trong cả nước, chủ động triển
khai, sớm ban hành các cơ chế, chính sách văn bản quy định quản lý, tổ chức thực
hiện chương trình MTQG GNBV trên địa bàn tỉnh theo quy định của trung ương,
như: Thành lập Ban Chỉ đạo và ban hành quy chế hoạt động của Ban Chỉ đạo các cấp;
Quy định nguyên tắc, tiêu chí, định mức phân bổ vốn ngân sách nhà nước thực hiện
các Chương trình MTQG giai đoạn 2021-2025 trên địa bàn tỉnh; giao kế hoạch vốn
triển khai thực hiện các chương trình MTQG giai đoạn 2021-2025 và năm 2022; quy
định một số nội dung về cơ chế thực hiện các chương trình MTQG trên địa bàn tỉnh,
triển khai đầy đủ theo quy định của Nghị định số 27/2022/NĐ-CP ngày 19/4/2022 của
Chính phủ. Đến 15/8/2022, UBND tỉnh đã hoàn thành ban hành các kế hoạch thực hiện
từng chương trình MTQG giai đoạn 2021-2025 và năm 2022 làm cơ sở cho các địa
phương triển khai thực hiện các bước tiếp theo. Công tác truyền thông, tuyên
truyền vận động được tập trung đẩy mạnh, thường xuyên, liên tục và đổi mới,
sáng tạo; các phong trào thi đua xây dựng nông thôn mới, giảm nghèo bền vững tiếp
tục được các cấp, các ngành, tổ chức đoàn thể triển khai có hiệu quả và đông đảo
các tầng lớp nhân dân tích cực hưởng ứng. Mặc dù là năm đầu được giao vốn triển
khai thực hiện các Chương trình gặp nhiều khó khăn, nhưng hầu hết các mục tiêu,
chỉ tiêu đều đạt và vượt kế hoạch giao như:
Kết quả năm 2022 số hộ nghèo còn lại 34.585 hộ/178.586
hộ trên địa bàn, chiếm 19,37 %; tỷ lệ nghèo giảm 5,82/4,5%= 129,33% KH giao, bằng
5,82/4 = 145,5% KH Trung ương giao; tương ứng giảm 9.770 hộ nghèo, giảm vượt
770 hộ nghèo, đạt 108,6% KH giao; Hộ cận nghèo còn lại 21.733 hộ/178.586 hộ chiếm
tỷ lệ 12,17% so với tổng số hộ trên địa bàn, giảm 0,77%, tương đương giảm 1.071
hộ so năm 2021. Tỷ lệ hộ nghèo trên địa bàn các huyện nghèo giảm 7,7/6=128% KH
tỉnh và Trung ương giao, tương đương giảm 4.191 hộ nghèo (Bắc Hà giảm 8,8%; Si
Ma Cai giảm 7,5%; Mường Khương giảm 7,7%; Bát Xát giảm 8,3%). - Tỷ lệ hộ nghèo
trong đồng bào dân tộc thiểu số năm 2021 là 41.195 hộ, chiếm tỷ lệ 40,03% số hộ
đồng bào DTTS; kết quả thực hiện năm 2022 còn 32.907 hộ, chiếm tỷ lệ 31,8%; Tỷ
lệ giảm nghèo trong đồng bào DTTS là 8,23%, giảm vượt 2,23% và đạt 137,2% so với
kế hoạch giao giảm trên 6%. 4 - Thu nhập bình quân đầu người (GRDP) toàn tỉnh hết
năm 2022 đạt 90 triệu đồng/năm, tương đương 7,5 triệu đồng/tháng, bằng 100% mục
tiêu KH; Đối với các huyện nghèo thu nhập bình quân đầu người là 32,05 triệu đồng/năm,
đạt 97,5% mục tiêu KH là 32,88 triệu đồng/người/năm. - Công tác giải ngân nguồn
vốn ngân sách Trung ương năm 2022 đạt 321.659 triệu đồng/391.065 triệu đồng, đạt
82,25% kế hoạch vốn giao, trong đó: Vốn đầu tư: 288.470/313.730 triệu đồng, đạt
92% kế hoạch vốn; Vốn sự nghiệp: 33.189/77.335 triệu đồng, đạt 42,9% kế hoạch vốn.
Kế hoạch số
142/KH-UBND ngày 15/3/2023 của UBND tỉnh thực hiện Chương trình mục tiêu quốc
gia giảm nghèo bền vững tỉnh Lào Cai, năm 2023 đặt ra mục tiêu phấn đấu giảm tỷ
lệ hộ nghèo toàn tỉnh năm 2023 đạt trên 4%, trong đó tỷ lệ hộ nghèo trên địa
bàn các huyện nghèo giảm từ 6,9%/năm trở lên. Tỷ lệ hộ nghèo trong đồng bào dân
tộc thiểu số giảm từ 6,6%/năm trở lên. Thu nhập bình quân đầu người (GRDP) toàn
tỉnh đến năm 2023 đạt 103 triệu đồng/năm, trong đó thu nhập bình quân đầu người
của các huyện nghèo đạt trên 36,5 triệu đồng/năm.
Các chỉ tiêu cần
đạt đến cuối năm 2023 một số kết quả và chỉ tiêu chủ yếu thuộc chương trình giảm
nghèo: Phấn đấu giảm trên 10.000 hộ nghèo và hộ cận nghèo so với năm 2022 theo
chuẩn nghèo đa chiều của quốc gia. 100% các huyện nghèo được hỗ trợ đầu tư phát
triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội liên kết vùng, phục vụ dân sinh, sản xuất,
thương mại, lưu thông hàng hóa và cung cấp các dịch vụ xã hội cơ bản; ưu tiên đầu
tư cơ sở hạ tầng thiết yếu, gồm: đường giao thông, trường học, cơ sở y tế, cầu,
hạ tầng điện, công trình thủy lợi. Hỗ trợ
xây dựng, nhân rộng trên 20 mô hình giảm nghèo, xây dựng và phê duyệt trên 100
dự án hỗ trợ phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, du lịch, khởi nghiệp, khởi
sự kinh doanh nhằm tạo sinh kế, việc làm, thu nhập bền vững, thích ứng với biến
đổi khí hậu, dịch bệnh cho hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo; người
dân sinh sống trên địa bàn huyện nghèo. Phấn đấu trên 80% người có khả năng lao
động, có nhu cầu thuộc hộ nghèo, hộ trên địa bàn huyện nghèo được hỗ trợ nâng
cao năng lực sản xuất nông, lâm nghiệp nhằm đổi mới phương thức, kỹ thuật sản
xuất, bảo đảm an ninh lương thực, đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng, tăng thu nhập. Phấn
đấu hỗ trợ trên 50% hộ nghèo, hộ cận nghèo có ít nhất một thành viên trong độ
tuổi lao động có việc làm bền vững, có thu nhập ổn định hàng tháng. 100% cán bộ
làm công tác giảm nghèo được bồi dưỡng, tập huấn kiến thức về các nội dung triển
khai công tác giảm nghèo.
Các chỉ tiêu
giải quyết mức độ thiếu hụt các dịch vụ xã hội cơ bản: Chiều thiếu hụt về việc
làm: 100% người lao động thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo có
nhu cầu được hỗ trợ kết nối, tư vấn, định hướng nghề nghiệp, cung cấp thông tin
thị trường lao động, hỗ trợ tìm việc làm. Tối thiểu 1.000 người lao động thuộc
hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo, vùng nghèo, vùng khó khăn được hỗ
trợ kết nối việc làm thành công. Tối thiểu 200 người lao động thuộc các huyện
nghèo được hỗ trợ đào tạo; trong đó, có khoảng 120 lao động đi làm việc ở nước
ngoài theo hợp đồng (ít nhất 80% hộ gia đình có người đi làm việc ở nước ngoài
sẽ thoát nghèo). Hỗ trợ khoảng 12 người lao động tham gia các khóa đào tạo nâng
cao trình độ ngoại ngữ trước khi đi làm việc ở nước ngoài theo các Hiệp định ký
giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ nước tiếp nhận. Chiều thiếu hụt về y tế:
100% người thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo được hỗ trợ tham gia bảo hiểm y tế; giảm
tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi trẻ em dưới 16 tuổi tại các huyện nghèo, các xã,
thôn đặc biệt khó khăn xuống dưới 27,6%. Chiều thiếu hụt về giáo dục, đào tạo:
+ Tỷ lệ trẻ em thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo đi học đúng độ tuổi đạt 98% trở
lên. + Tỷ lệ người lao động thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo và
tỷ lệ người lao động thuộc vùng nghèo, vùng khó khăn qua đào tạo đạt trên 60%,
trong đó có bằng cấp chứng chỉ đạt 25%; 100% người lao động thuộc hộ nghèo, hộ
cận nghèo, hộ mới thoát nghèo, người lao động có thu nhập thấp có nhu cầu được
hỗ trợ đào tạo kỹ năng nghề phù hợp. Chiều thiếu hụt về nước sinh hoạt và vệ
sinh: Trên 93% hộ nghèo, hộ cận nghèo sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh; ít nhất
70% hộ nghèo, hộ cận nghèo sử dụng nhà tiêu hợp vệ sinh. Chiều thiếu hụt về
thông tin: Trên 77% hộ nghèo, hộ cận nghèo có nhu cầu được tiếp cận sử dụng các
dịch vụ viễn thông, internet; 93% các hộ gia đình sinh sống địa bàn huyện nghèo
được tiếp cận thông tin về giảm nghèo bền vững thông qua các hình thức xuất bản
phẩm, sản phẩm truyền thông.
Phạm vi trên
phạm vi toàn tỉnh, trọng tâm là các huyện nghèo.
Đối tượng Hộ
nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo (trong vòng 36 tháng, kể từ thời điểm hộ
được cấp có thẩm quyền công nhận thoát nghèo) trên phạm vi toàn tỉnh. Ưu tiên hỗ
trợ hộ nghèo dân tộc thiểu số, hộ nghèo có thành viên là người có công với cách
mạng; trẻ em, người khuyết tật, phụ nữ thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới
thoát nghèo. Người lao động thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo;
người dân sinh sống trên địa bàn các huyện nghèo. Các huyện nghèo trên địa bàn
tỉnh. Cơ sở giáo dục nghề nghiệp, tổ chức dịch vụ việc làm, doanh nghiệp, hợp
tác xã trên địa bàn tỉnh. Các tổ chức, cá nhân liên quan.